Nho giáo
Ở Việt Nam trước đây có ba học thuyết tôn giáo: Nho, Phật, Đạo (Lão), thường gọi là Tam Giáo. Nho và Đạo ra đời ở Trung Quốc, từ đó trực tiếp truyền vào Việt Nam ngay những ngày đầu thời Bắc thuộc. Nho giáo đã bắt đầu xuất hiện từ ngàn năm trước Công nguyên nhưng chỉ đến khi có vai trò của Khổng Tử (551 - 478 tr. CN) mới trở thành một hệ thống. Đó là một học thuyết đạo đức chính trị chủ trương con người sống có trách nhiệm, thương yêu con người, vì đời, cứu đời, không lo nghĩ đến những chuyện không thiết thực ở kiếp sau, ở thế giới bên kia.
Mối quan tâm của họ là xã hội loạn ly do con người vì tham lam, chạy theo tham vọng nên sinh ra tranh giành, chiến tranh. Phương sách cứu đời của Nho giáo là xây dựng một xã hội hoà mục, ổn định, giống như một gia đình êm ấm cha từ, con hiếu, anh em vợ chồng thuận hoà, trên thương dưới và dưới nghe trên.
Trật tự trên dưới thuận hoà như vậy theo Nho giáo là biểu hiện của "đạo" trong trời đất. Thiết lập một trật tự như vậy ở khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội, giữa dân với Nhà nước là phù hợp với "đạo" đó. Trong phạm vi xã hội, trật tự trên dưới căn cứ vào họ hàng thân sơ, tuổi tác lớn nhỏ và tước vị cao thấp.
Đứng đầu mọi dãy trật tự là Thiên tử. Thiên tử là con Trời là chúa tể, là cha, là thầy của mọi người. Thiên tử hay Vua đối với dân cũng như cha đối với con, có trách nhiệm thương yêu, chăm lo nuôi nấng dạy dỗ. Mà dân đối với Vua cũng như con đối với cha, có trách nhiệm phục tùng biết ơn và lo báo đáp.
Làm cơ sở cho xã hội tốt đẹp là những gia đình êm ấm, là làng nước có trật tự trên dưới phân minh, là quốc gia thống nhất và ngôi Vua chính thống. Vua sắp xếp cho mọi thần dân có phân vị rõ ràng và thần dân theo phân vị mà sống: ăn mặc, nói năng, hành động theo lễ qui định. Để đạt đến xã hội như vậy, mọi người từ Thiên tử cho đến dân thường đều phải lo tu dưỡng đạo đức. Nhà nước phải quan tâm đến việc giáo hoá cho mọi người sống theo đạo đức, nhân nghĩa, trung hiếu, lễ nhượng, yên phận, yên mệnh.
Trị nước là công việc của người làm vua, làm quan. Theo quan niệm của Nho giáo chính là công việc của người làm cha mẹ dân: tu thân và nêu gương, yêu thương và chăm lo cho dân, giáo hoá cho dân giữ cương thường, đặt lên hàng đầu việc dùng đức, dùng lễ nhạc để giáo hoá chứ không phải dùng pháp luật, thưởng phạt để cưỡng chế.
Trình bày ở trên là những nội dung chủ yếu của Nho giáo, nhưng cũng chỉ là lý thuyết và lý tưởng. Trong thực tế, các nhà nước phong kiến khi sử dụng Nho giáo đã lái học thuyết này theo mục đích của mình. Nhiều vua chúa tận dụng chiêu bài "Mệnh Trời" che đậy các tội ác đẫm máu, lợi dụng cương vị "Con Trời" để chuyên chế tàn bạo, sử dụng thuyết "Yên phận, yên mệnh" để hãm người dân trong thân phận phục tùng.
Các triều đại phong kiến Việt Nam sau khi thu về trong tay cả lãnh thổ rộng lớn với nền độc lập vững vàng, đứng trước nhiệm vụ ổn định đất nước và sẵn sàng đối phó với nạn ngoại xâm (từ phương Bắc và cả phương Nam) đều có ý thức lựa chọn Nho giáo làm quốc giáo. Từ đời Lý đã lập Văn Miếu (1070), lập Quốc Tử Giám (1076) và tổ chức thi cử, mở đầu cho việc trọng dụng Nho giáo, tổ chức việc học hành thi cử theo Nho học. Từ đó về sau, Nho học càng ngày càng phát đạt. Những người theo Nho học, đậu đạt trong các kỳ thi được giao cho nắm giữ hầu hết các chức vụ quan trọng trong chính quyền. Nhất là từ thế kỷ XV, khi Nho giáo thành độc tôn, khoa thi mở đều đặn, người đi học ngày càng đông, từ kinh đô cho đến các làng xóm hẻo lánh. Nho giáo được lựa chọn vì nhu cầu của Nhà nước trung ương tập quyền và phát triển sâu rộng nhờ chế độ giáo dục và khoa cử.
Nho giáo chiếm lĩnh đời sống tinh thần. Tư tưởng Khổng, Mạnh qua kinh, truyện theo các chú giải của các nhà nho đời Tống được sùng bái, coi là chuẩn mực của mọi tư duy, ngôn luận và hoạt động học thuật, nghệ thuật. Tuy nhiên có nhiều nhà nho Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Võ Trường Toản... đã không câu nệ, giáo điều theo lý thuyết Nho giáo.
Thái độ ít câu nệ về tư tưởng, tôn giáo cũng lại biểu hiện trong nhân dân, nhưng theo một cách khác. Người Việt Nam thờ cúng tổ tiên, ứng xử trong các quan hệ gia đình, họ hàng làng xóm, với vua, quan theo những chuẩn mực lễ nghĩa Nho giáo. Nhưng họ cũng thờ Phật, thờ Thần, cầu cúng ở đạo quán. Nói chung họ sống theo quan niệm thương người, làm việc thiện, tôn trọng kỷ cương.
Ba học thuyết - tôn giáo trên đều có ảnh hưởng ít nhiều, khác nhau theo từng vùng, tới các tầng lớp xã hội. Song Nho giáo bám chắc vào cơ chế chính trị xã hội, vào chế độ giáo dục khoa cử, vào tầng lớp trí thức làm chủ học thuật, văn hoá nên có ảnh hưởng sâu sắc nhất.
Do ảnh hưởng Nho giáo, một mặt Nhà nước phong kiến Việt Nam quan tâm rất sớm và rất nhiều đến việc mở mang giáo dục, chú ý đào tạo nhân tài, sưu tầm và biên soạn sử sách. Mặt khác, nhân dân vì vậy cũng trở thành hiếu học, tôn sư trọng đạo, quý trọng văn hoá. Cả hai phía góp phần làm cho Việt Nam thành nước có văn hiến sớm hơn nhiều nước khác trong vùng.
Với nền kinh tế nông nghiệp và cuộc sống định cư thành làng, Nho giáo cũng góp phần củng cố trật tự xã hội, củng cố tình làng nghĩa xóm và khi nước gặp nạn, nhiều người vì nghĩa khí mà chiến đấu hy sinh anh hùng. Tinh thần đạo đức nhân nghĩa, hoà với truyền thống yêu quê hương, đất nước, góp phần giáo dục làm cho con người bớt tàn bạo. Mặt khác, Nho giáo cũng dạy người ta thờ cúng các vị thần chính trực, bảo quốc hộ dân mà chống thờ cúng nhảm nhí.
Tuy vậy, Nho giáo cũng là công cụ trong tay chế độ chuyên chế bảo vệ dòng chính thống, biến trung nghĩa thành vật cản cho tinh thần đấu tranh chống áp bức tàn bạo; nó bảo vệ trật tự và ổn định, biến sự hoà mục thành sự áp bức của người trên đối với người dưới.
Nho giáo đề cao văn hiến, lễ nhạc, đề cao việc học nhưng chỉ chú ý văn và sử, coi thường khoa học và kỹ thuật. Về sau, gắn với chế độ khoa cử, việc học tuy mở rộng nhưng lại kinh viện, từ chương và mưu cầu danh vị. Lối giáo dục của Nho giáo không làm cho con người hướng tới tự do, tự lập, tự cường, mà thích quẩn quanh danh vị, chờ đợi ơn trên. Sống êm thấm, hoà mục, trật tự, ổn định không phải không có mặt hấp dẫn. Nhưng sống như vậy cũng đòi hỏi giữ yên, không xáo trộn, nhân nhượng và nghe theo bề trên, coi đấu tranh, nhất là đấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền lợi vật chất là thiếu cao thượng và không dễ chấp nhận cải cách để tiến bộ.
Đó là những mặt hạn chế của Nho giáo. Ở Việt Nam Nho giáo mất độc quyền cùng với việc người Pháp xoá bỏ các khoa thi hương, thi hội thời gian 1915 - 1919. Nhưng tư duy Nho giáo - cả mặt tích cực và hạn chế - thì vẫn dai dẳng tồn tại ở người này và người kia, ở thời này và thời nọ. Điều đó có giúp cho xã hội giữ được nền nếp, đạo lý song cũng gây trở ngại cho việc dân chủ hoá, đổi mới tư duy và phát triển.