05/07/2024

Múa dân tộc

Từ thuở bình minh của loài người, nghệ thuật múa đã hiện diện với tư cách là một thành tố văn hóa, một nhu cầu văn hóa - xã hội không thể thiếu. Múa nảy sinh, phát triển trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc và gắn bó với môi trường tự nhiên, lao động, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Việt Nam.

Thuở xa xưa múa gần gũi, gắn bó với trình độ, phương thức sản xuất còn thô sơ của con người: săn bắn, hái lượm, trồng tỉa... nên múa thời kỳ này là những động tác tái hiện các hoạt động trong cuộc sống, lao động sản xuất: ném đá, bắn cung, trọc lỗ tra hạt... Sau thời gian lao động, từng bầy người quây quần bên đống lửa trong tiếng hò, reo, nhịp vỗ tay, nhịp đập của chân; âm thanh của đá, tre, nứa... Tạo nên nguồn cảm hứng cho những người múa. Đó là những yếu tố manh nha của nghệ thuật múa. Những hình ảnh miêu tả người múa trên nhiều trống đồng cổ ở Việt Nam đã minh chứng điều đó.

Sự phát triển của xã hội con người Việt Nam đã thúc đẩy sức sáng tạo để múa ngày một hoàn thiện thành một loại hình nghệ thuật thể hiện tư tưởng, tình cảm của con người bằng ngôn ngữ biểu cảm riêng mang tính thẩm mỹ và chức năng giáo dục.

Hình thái xã hội thay đổi về bộ máy nhà nước, về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo... là tiền đề và thúc đẩy cho sự ra đời và phát triển các hình thái múa ở Việt Nam. Mặt khác, múa còn mang đặc trưng văn hóa tộc người, văn hóa vùng, miền. Múa các tộc người vùng Tây Nguyên hồn nhiên, duyên dáng, sôi nổi, nồng nhiệt, hoang dã, cổ xưa. Múa các tộc người vùng Tây Bắc nhẹ nhàng, duyên dáng, tế nhị, mềm mại. Múa các dân tộc vùng Việt Bắc rộn ràng, mềm mại, vui hoạt. Múa tộc người Việt vùng đồng bằng mềm mại, uyển chuyển, có tính cách, vui, hóm hỉnh.

Nghệ thuật múa truyền thống Việt Nam có thể chia thành bốn hình thái múa: múa dân gian, múa tín ngưỡng, múa cung đình và múa tôn giáo.