22/08/2024

Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử

Quần thể Di tích và danh thắng Yên Tử nằm trong vùng núi cao Yên Tử, thuộc cánh cung Đông Triều với độ cao trung bình trên 600m, đỉnh cao nhất là ngọn núi Yên Tử có độ cao 1.068m so với mực nước biển. Cánh cung Đông Triều được xem là “phên dậu” phía Đông Bắc của Việt Nam. Nơi đây, không chỉ là một thắng cảnh thiên nhiên, nơi bảo tồn nhiều giống loài động, thực vật mà còn là vùng đất gắn liền với Vương triều nhà Trần trong lịch sử, là Đất tổ Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam.

Từ xưa các tín đồ đạo Phật Việt Nam đã đến Yên Tử dựng am cỏ cầu kinh niệm Phật. Tương truyền, từ trước Công nguyên, đạo sĩ An Kỳ Sinh (Yên Kỳ Sinh) đã đến nơi đây tu hành và đắc đạo. Những năm sau đó, nhiều thế hệ tăng ni phật tử Việt Nam tiếp tục tìm đến Yên Tử tu hành, xây dựng chùa, tháp và nhiều công trình khác.

Đặc biệt, từ thời Trần (1226 - 1400), Yên Tử đã được đầu tư xây dựng thành khu Quần thể kiến trúc chùa, tháp có quy mô to lớn. Khởi đầu là vua Trần Thái Tông đến Yên Tử tháng 4 năm Bính Thân (1236). Sau đó, Trần Nhân Tông - vị vua đã lãnh đạo hai cuộc kháng chiến đại thắng quân Nguyên - Mông vào năm 1285 và 1288. Vào lúc triều đại nhà Trần đang hưng thịnh, Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con để chuyên tâm nghiên cứu đạo Phật và tìm đến Yên Tử tu hành.

Năm 1299, Trần Nhân Tông đã chính thức thành lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử bằng cả một hệ thống lý thuyết và hành động gắn đạo với đời. Ông được coi là vị Sư Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang Phật danh Điều Ngự Giác Hoàng. Kế tục sự nghiệp của ông là Sư Tổ Pháp Loa và Huyền Quang Tôn Giả. Cả ba vị được gọi là Trúc Lâm Tam Tổ. Từ đó, Yên Tử trở thành kinh đô tư tưởng của Phật phái Trúc Lâm, đánh dấu sự phát triển triết học và tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong các thế kỷ XIII và XIV. Gắn liền với lịch sử phát triển dòng thiền Trúc Lâm tại Yên Tử là việc xây dựng và hình thành một quần thể các công trình kiến trúc gồm nhiều chùa và hàng trăm am, tháp, mộ, bia, tượng. Quần thể kiến trúc này được đặt trong một tổng thể cảnh quan hùng vĩ, trải dài hàng chục km tạo thành Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử, phân bổ ở cả 3 tỉnh Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương.

Là một Khu di tích có tầm quan trọng đặc biệt, lưu trữ dấu ấn của một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, Quần thể Di tích và Danh thắng Yên Tử đang được Việt Nam xây dựng đề án trình UNESCO vinh danh là Di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới. Sau đây là các di tích chủ yếu (thuộc tỉnh Quảng Ninh):

Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều

Đông Triều được chính sử ghi là quê gốc nhà Trần, sau họ Trần chuyển về Nam Định - Thái Bình rồi phát tích đế vương ở đó. Sách Đông Triều huyện phong thổ ký ghi: "Tổ tiên nhà Trần cư ngụ ở xã An Sinh, nhiều người làm nghề chài lưới, sau này mới chuyển xuống ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, cho nên các vị vua triều Trần đều đưa về an táng ở xã An Sinh. Nay ngôi miếu cổ ở xã An Sinh tổng Mễ Sơn thờ 8 vị hoàng đế của triều Trần, lăng tẩm trong núi đều nằm ở xã này".

Đông Triều là vùng đất có nhiều Di tích lịch sử, văn hóa của các thời kỳ lịch sử. Nổi bật nhất là hệ thống các Di tích như: Khu lăng mộ, đền, miếu, chùa, tháp thời Trần với kiến trúc độc đáo, bên trong ẩn chứa một kho tàng tư liệu Hán Nôm quý báu gồm hoành phi, văn bia, câu đối, đại tự, sắc phong…

Một số di tích tiêu biểu trong khu vực này phải kể đến các ngôi chùa có liên quan trực tiếp tới Trần Nhân Tông và thiền phái Trúc lâm Yên Tử, đó là:

Am - chùa Ngọa Vân (thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh)

Khi thượng hoàng Trần Nhân Tông đến với núi rừng Yên Tử để tu hành, Ngài đã tạo dựng ở đây một am nhỏ để tu thiền, sau khi Ngài tịch các thế hệ nối tiếp đã xây dựng thêm ở đây nhiều công trình phật giáo phục vụ cho việc hành đạo nên mới gọi là chùa Ngọa Vân.

"Ngọa Vân" nghĩa là nằm trong mây, di tích nằm trên núi Bảo Đài, ở độ cao hơn 600m so với mặt nước biển, xung quanh là thảm thực vật rừng vô cùng phong phú, quanh năm mây bao phủ nên nhân dân ta đặt tên là am - chùa Ngọa Vân.

Chùa Quỳnh Lâm (xem trang 477)

Cụm di tích nhà Trần  ở An Sinh (Đông Triều) gồm có đền thờ và lăng mộ các Vua Trần:

Lăng Tư Phúc

Lăng Tư Phúc là nơi thờ thần vị của hai vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông (1226 - 1258) và Trần Thánh Tông (1258 - 1278) được chuyển từ Nam Định và Thái Bình về đây năm 1381. Theo nghĩa Hán Việt thì tư là nương nhờ, phúc là những sự tốt lành, vì vậy tên lăng còn hàm nghĩa là nơi lưu giữ, hoặc là nơi mang đến mọi sự tốt lành.

Thái lăng (lăng Đồng Thái)

Là lăng vua Trần Anh Tông (1293 - 1314), vị vua thứ tư của nhà Trần và phụ táng Thuận Thánh Bảo Từ hoàng hậu (vợ ông). Lăng được xây dựng tại xứ đồng Thái nên lấy tên địa danh đặt tên lăng.

Mục lăng (lăng Đồng Mục)

Là lăng vua Trần Minh Tông (1314 - 1329), vị vua thứ năm của nhà Trần. Lăng xây dựng tại xứ đồng Mục nên lấy tên là Mục Lăng.

Ngải Sơn lăng (Ngải lăng hay An lăng)

Là lăng mộ vua Trần Hiến Tông (1329 - 1341), vị vua thứ sáu của nhà Trần. Lăng xây dựng tại xứ Ngải sơn ở An Sinh nên lấy tên địa danh đặt tên lăng. An lăng là tên cũ của lăng ở Thái Bình, an là bình yên, cầu mong sự yên bình.

Phụ Sơn lăng (Phụ lăng hay Phụ Xứ lăng)

Là lăng mộ vua Trần Dụ Tông (1341-1369), vua đời thứ 7 nhà Trần. Lăng xây dựng tại gò Phụ xứ nên lấy tên địa danh đặt tên lăng.

Nguyên lăng (Đồng Hỷ lăng hay Chiêu lăng)

Là lăng vua Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), vua thứ 8 nhà Trần.

Hy lăng (Đồng Hy lăng)

Là lăng mộ giả của vua Trần Duệ Tông (1373 - 1377), sau này xây dựng thêm lăng mộ vua Trần Thuận Tông (1388 - 1398). Lăng táng tại xứ Đồng Hy nên lấy tên địa danh đặt tên lăng. 

Đền An Sinh (vốn là điện An Sinh)

Được xây dựng vào thời Trần, thế kỷ XIV, là nơi thờ năm Hoàng đế nhà Trần: Anh Tông hoàng đế, Minh Tông hoàng đế, Dụ Tông hoàng đế, Nghệ Tông hoàng đế và Khâm minh Thánh vũ hiển đạo An Sinh hoàng đế (có thể là An Sinh vương Trần Liễu). Đền được xây dựng tại làng An Sinh nên được đặt tên theo tên làng.

Đền Thái (Thái tổ miếu, Thái miếu)

Được xây dựng từ đầu thời Trần và là nơi thờ các vị vua đầu triều của nhà Trần, nhân dân trong vùng thường gọi tắt là đền Thái. Sang thời Nguyễn đền bị hư hỏng, nhân dân xây dựng lại thành đình thờ các vua Trần nên còn gọi là đình Đốc Trại.

Am Mộc Cảo (nghĩa là am cỏ)

Là nơi ở trong 10 năm cuối đời của Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng thái hậu, vợ của vua Trần Anh Tông. Khi rước linh cữu vua Trần Anh Tông về táng ở Thái lăng, bà đã rời bỏ Kinh thành về đây dựng am cỏ để sinh sống và phụng thờ, chăm sóc lăng mộ của chồng. Hiện nay ở đây chỉ còn lại dấu tích nền móng.

Chùa Trung Tiết

Trung (trung hiếu) và Tiết (tiết nghĩa) tên gọi của chùa hàm ý ca ngợi tấm lòng trung thành của Đặng Tảo và Lê Chung, hai vị bề tôi trung thành của thượng hoàng Trần Anh Tông.

Lúc Thượng hoàng Trần Anh Tông lâm chung, Thái học sinh Đặng Tảo và Gia nhi chủ đô Lê Chung đã tự nguyện về An Sinh dựng lều để trông coi lăng mộ thượng hoàng, sau đó dời cả gia đình, mồ mả tổ tiên về An Sinh để tiện việc chăm sóc. Sau khi Lê Chung và Đặng Tảo chết, cảm động trước lòng trung nghĩa của hai vị, vua Trần Nghệ Tông đã xây dựng chùa trên khu đất vốn là lều của hai ông và đặt tên là chùa Trung Tiết nhằm ghi nhận tấm lòng của các ông.

Các di tích Đông Yên Tử

Một số di tích tiêu biểu trong khu vực này là:

Chùa Bí thượng ( phường Phương Đông, thành phố Uông Bí) được khởi dựng vào cuối thời Hậu Lê, trên sườn phía Nam của một quả đồi dốc. Chùa đóng vai trò chùa Trình trước khi hành hương lên Khu Di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử.

Chùa Suối Tắm (phường Phương Đông, thành phố Uông Bí), là ngôi chùa gắn liền với truyền thuyết về việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành đã nghỉ lại tắm ở dòng suối này nên  gọi là Suối Vua tắm hay Suối tắm.

Chùa Lân (xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí) được xây dựng từ thời Trần, là ngôi chùa thứ tư trên đường từ Dốc Đỏ vào Yên Tử. Tên chùa Lân còn được nhân dân địa phương hiểu theo tích: Ngày xưa, vào mùa mưa, vùng Nam Mẫu ngập trắng nước, suối chảy mạnh, muốn vào chùa phải dùng bè mảng, nhà chùa phải căng dây cho khách bám, lân dây đi vào. Do việc lân dây lên chùa lâu dần trở thành quen mỗi khi mùa nước ngập, nên chùa có tên chùa Lân.

Chùa Hoa Yên (xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí), được xây dựng từ thời Lý. Ban đầu là một am nhỏ, sau dựng thành chùa mái lợp bằng lá cây rừng gọi là chùa Vân Yên. Chùa ở độ cao 600m nên những làn mây trắng mỏng bay qua trông như những làn khói nên gọi là Vân Yên. Chùa tọa lạc trên lưng chừng núi, trong một địa thế hùng vĩ, là một ngôi chùa còn giữ lại ít nhiều dấu tích xưa, chùa được xây dựng trên một triền núi rộng thoai thoải, những người xây dựng đã dựa vào thế núi mà bạt thành hai cấp nền lớn có bó đá chắc chắn.Thời Lê khi vua Thánh Tông lên vãn cảnh chùa, thấy cảnh trí nơi đây tuyệt đẹp, trăm hoa đua nở, mây kết thành hoa, giăng trước cửa nên đổi tên thành chùa Hoa Yên.

Xưa chùa Hoa Yên là ngôi chùa chính của cả hệ thống chùa Yên Tử và được nhắc nhiều trong sử sách. Ngoài tiền đường, thượng điện, chùa còn có rất nhiều công trình phụ trợ khác. Theo sử cũ thì sau khi lên Yên Tử tu hành và đắc đạo, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã thường xuyên mở các lớp truyền yếu kỷ Thiền tông cho các đệ tử.

Từ chùa Giải Oan đi tới chùa Hoa Yên trên con đường có hai hàng tùng cổ thụ được trồng từ thời Trần vẫn đứng uy nghiêm với tuổi thọ hơn 700 năm, thân rắn chắc, rễ bám vào vách núi bò lan trên mặt đường như những con rắn khổng lồ tạo bậc vững chắc đỡ chân phật tử về nơi cõi phật, tán lá mềm mại, xanh thẫm toả rộng như những chiếc lọng khổng lồ che rợp con đường hành hương của Phật tử.

Cách đường Tùng không xa là những bạt Trúc với vẻ đẹp thanh bạch, tao nhã và sức sống dẻo dai, tương truyền những rặng trúc này cũng được trồng khi Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành.

Qua đường tùng và đường trúc tiếp tục hành hương qua khu tháp Hòn Ngọc, khu tháp Tổ rồi đến chùa Hoa Yên, qua đây chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống tháp đa dạng và phong phú của các thế hệ thiền sư phái Trúc Lâm đã đến đây tu thiền và đi vào cõi vĩnh hằng.

Chùa Đồng thuộc địa bàn thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí. Chùa nằm trên đỉnh Tử Tiêu. Vào thời Thượng hoàng Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành chưa có chùa, ở đó chỉ có một hòn đá vuông phẳng thật lớn, ở độ cao 1.068m so với mực nước biển, là đỉnh cao nhất của dãy núi Yên Tử.  Ngài đã chọn nơi đây làm nơi tĩnh thiền. Vào thời Lê, chùa được bà vợ chúa Trịnh công đức xây dựng, toàn bộ kết cấu kiến trúc cũng như đồ thờ tự trong chùa đều được tạo tác bằng đồng, để phù hợp với không khí ẩm ướt quanh năm ở nơi đây. Song do sự khắc nghiệt của thiên nhiên nên chùa bị hư hỏng và đã trải qua nhiều lần trùng tu, năm 2007 chùa được xây dựng lại như ngày nay.

Rừng quốc gia Yên Tử

Rừng Quốc gia Yên Tử với tổng diện tích 2.783 ha bao trọn các điểm di tích của Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử, tỷ lệ che phủ của rừng chiếm 80% diện tích (rừng tự nhiên chiếm 64,6%). Trong đó có 321ha rừng hầu như chưa bị tác động bao gồm các ưu hợp, loài cây ưu thế sinh thái đặc trưng cho vùng Đông Bắc như: táu mặt quỷ, táu muối, sến mật, chẹo, giẻ, trâm... trữ lượng bình quân 218m3/ha.

Rừng Yên Tử phân làm 2 vùng khí hậu:

- Từ độ cao 700m trở xuống là rừng Nhiệt đới, rừng nhiều tầng đa dạng sinh học.

- Từ độ cao 700m trở lên là rừng Á nhiệt đới, quanh năm mây phủ, ẩm ướt.

Rừng quốc gia Yên Tử có 830 loài thực vật, trong đó có 38 loài đã được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Những loài cây gắn bó với Phật Hoàng Trần Nhân Tông và Thiền Phái Trúc Lâm, gồm:

- Cây Tùng cổ có tuổi 700 năm, hiện còn 242 cây.

- Cây Đại cổ hiện còn 13 câyChùa Hoa Yên, Tháp Tổ...

- Những rừng Trúc bạt ngàn và những cây Mai vàng Yên Tử.

Rừng quốc gia Yên Tử có hệ động vật phong phú và đa dạng: Có một số loài động vật quý hiếm còn được bảo vệ ở Yên Tử như: Cu ly lớn, Khỉ mặt đỏ, Vọoc mũi huyếch, Khỉ nước rái cá, Sơn dương, Sóc bay lớn, Rồng đất, Trăn, các loài Rắn, Rùa vàng...